Scholar Hub/Chủ đề/#bệnh loãng xương/
Bệnh loãng xương, còn gọi là loãng xương, là một tình trạng mà xương mất đi độ dẻo dai và mật độ xương giảm, dẫn đến tăng nguy cơ gãy xương. Bệnh thường phát tr...
Bệnh loãng xương, còn gọi là loãng xương, là một tình trạng mà xương mất đi độ dẻo dai và mật độ xương giảm, dẫn đến tăng nguy cơ gãy xương. Bệnh thường phát triển dần theo thời gian và không gây triệu chứng rõ ràng ban đầu. Người mắc bệnh loãng xương có nguy cơ cao hơn bị gãy xương khi gặp chấn thương nhẹ hoặc thậm chí trong các hoạt động hàng ngày. Các nguyên nhân gây ra loãng xương có thể bao gồm lão hóa tự nhiên, thiếu canxi và vitamin D, tiền sử gia đình, hormone giới tính, tiền sử loãng xương, thuốc steroid hoặc bệnh dự phòng và điều trị ung thư.
Bệnh loãng xương, hay còn gọi là osteoporosis, là một bệnh xương phổ biến, đặc biệt ở phụ nữ sau mãn kinh. Bệnh xảy ra khi quá trình tái tạo mô xương không cân bằng, làm cho xương mất mật độ và trở nên dễ gãy.
Nguyên nhân chính của loãng xương là do mất cân đối giữa quá trình hình thành xương mới và quá trình phá huỷ xương cũ. Khi cơ thể không cung cấp đủ canxi để xây dựng xương mới hoặc không tạo đủ hormone cần thiết để duy trì mật độ xương, quá trình phá huỷ xương phá vỡ sự cân đối và gây ra loãng xương.
Những yếu tố tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương bao gồm: tuổi cao (sau 50 tuổi), giới tính nữ, tiền sử gia đình về loãng xương, tiền sử gãy xương không rõ nguyên nhân, thói quen sống không lành mạnh (hút thuốc, uống rượu, thiếu vận động), ăn ít canxi và vitamin D, sử dụng lâu dài corticosteroid, tiền sử bệnh giảm tiễn dịch (như lupus, viêm mạn tính đại tràng), menopause sớm hoặc tác động âm hộ.
Triệu chứng của bệnh loãng xương thường không rõ ràng cho đến khi xảy ra gãy xương. Các vùng xương thường bị ảnh hưởng nhiều là xương cột sống, cổ đùi và cổ tay. Gãy xương do loãng xương thường xảy ra sau chấn thương nhỏ hoặc tác động nhẹ, như ngã nhẹ hoặc vọt ngón chân. Các biện pháp phòng ngừa và điều trị loãng xương bao gồm bổ sung canxi và vitamin D, tăng cường hoạt động thể chất, giữ cân nặng, tránh thuốc corticosteroid lâu dài, sử dụng thuốc được chỉ định như bisphosphonates và hormone thay thế trong trường hợp cần thiết.
Nếu bạn có nguy cơ mắc bệnh loãng xương hoặc có các triệu chứng liên quan đến xương, hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ để được tư vấn và chẩn đoán chính xác.
Polyphenol thực vật như chất chống oxy hoá trong dinh dưỡng và bệnh tật ở con người Oxidative Medicine and Cellular Longevity - Tập 2 Số 5 - Trang 270-278 - 2009
Polyphenol là các chất chuyển hóa thứ cấp của thực vật và thường tham gia vào việc bảo vệ chống lại tia cực tím hoặc sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh. Trong thập kỷ qua, đã có nhiều quan tâm về tiềm năng lợi ích sức khỏe từ polyphenol thực vật trong chế độ ăn uống như một chất chống oxy hoá. Các nghiên cứu dịch tễ học và phân tích tổng hợp liên quan mạnh mẽ đến việc tiêu thụ lâu dài các chế độ ăn uống giàu polyphenol thực vật có thể cung cấp sự bảo vệ chống lại sự phát triển của ung thư, bệnh tim mạch, tiểu đường, loãng xương và các bệnh thoái hóa thần kinh. Tại đây, chúng tôi trình bày kiến thức về các tác động sinh học của polyphenol thực vật trong bối cảnh liên quan đến sức khỏe con người.
#polyphenol thực vật #chất chống oxy hóa #sức khỏe con người #ung thư #bệnh tim mạch #tiểu đường #loãng xương #bệnh thoái hóa thần kinh #chất chuyển hóa thứ cấp #bảo vệ tế bào.
Điều trị Gãy Xương Đốt Sống Đau Đớn Bằng Kyphoplasty cho Bệnh Nhân Loãng Xương Nguyên Phát: Một Nghiên Cứu Tiền Tiến Không Ngẫu Nhiên Có Kiểm Soát Oxford University Press (OUP) - Tập 20 Số 4 - Trang 604-612 - 2005
Tóm tắt Nghiên cứu này điều tra các tác động của kyphoplasty đối với cơn đau và khả năng vận động ở bệnh nhân loãng xương và gãy xương đốt sống đau, so với quản lý y tế thông thường. Giới thiệu: Điều trị dược phẩm cho bệnh nhân loãng xương nguyên phát không ngăn ngừa đau và suy giảm hoạt động ở bệnh nhân bị gãy xương đốt sống đau đớn. Vì vậy, chúng tôi đã đánh giá kết quả lâm sàng sau khi thực hiện kyphoplasty ở bệnh nhân bị gãy xương đốt sống và đau mãn tính kèm theo trong hơn 12 tháng. Vật liệu và Phương pháp: Sáu mươi bệnh nhân loãng xương nguyên phát và gãy xương đốt sống đau đớn trình diện trên 12 tháng đã được bao gồm trong nghiên cứu tiến cứu không ngẫu nhiên này. Hai mươi bốn giờ trước khi thực hiện kyphoplasty, bệnh nhân tự xác định việc tham gia vào nhóm kyphoplasty hoặc nhóm kiểm soát do đó 40 bệnh nhân được điều trị bằng kyphoplasty, trong khi 20 làm nhóm kiểm soát. Nghiên cứu này đánh giá thay đổi hình thái học trên X-quang, chỉ số đau theo thang đo analog hình ảnh (VAS), các hoạt động hàng ngày (thang đo của Nghiên cứu Loãng Xương Đốt Sống châu Âu [EVOS]), số lượng gãy xương đốt sống mới và việc sử dụng dịch vụ y tế. Các kết quả được đánh giá trước điều trị và tại thời điểm 3 và 6 tháng theo dõi. Tất cả bệnh nhân đều nhận được điều trị y tế tiêu chuẩn (1g canxi, 1000 IE vitamin D3, liều tiêu chuẩn của aminobisphosphonate uống, thuốc giảm đau, vật lý trị liệu). Kết quả: Kyphoplasty tăng chiều cao đốt sống ở vị trí giữa của các thân đốt sống được điều trị lên 12,1%, trong khi ở nhóm kiểm soát, chiều cao đốt sống giảm xuống 8,2% (p = 0.001). Tăng cường và ổn định bên trong bằng kyphoplasty dẫn đến giảm đau lưng. Chỉ số đau VAS được cải thiện trong nhóm kyphoplasty từ 26,2 ± 2 đến 44,2 ± 3.3 (SD; p = 0.007) và ở nhóm kiểm soát từ 33,6 ± 4.1 đến 35.6 ± 4.1 (không có ý nghĩa thống kê), trong khi điểm số EVOS tăng trong nhóm kyphoplasty từ 43,8 ± 2.4 đến 54.5 ± 2.7 (p = 0.031) và ở nhóm kiểm soát từ 39,8 ± 4.5 đến 43.8 ± 4.6 (không có ý nghĩa). Số lượt khám bác sĩ liên quan đến đau lưng trong khoảng thời gian theo dõi 6 tháng giảm đáng kể sau khi kyphoplasty so với nhóm kiểm soát: trung bình 3.3 lượt khám/bệnh nhân ở nhóm kyphoplasty và trung bình 8.6 lượt khám/bệnh nhân ở nhóm kiểm soát (p = 0.0147). Kết luận: Kết quả của nghiên cứu này cho thấy chiều cao đốt sống tăng đáng kể, giảm đau và cải thiện khả năng vận động ở bệnh nhân sau kyphoplasty. Kyphoplasty thực hiện ở những bệnh nhân loãng xương được chọn lọc phù hợp với gãy xương đốt sống đau đớn là một bổ sung đầy hứa hẹn cho liệu pháp y tế hiện nay.
#kyphoplasty #loãng xương #gãy xương đốt sống #đau lưng #cải thiện vận động #nghiên cứu kiểm soát không ngẫu nhiên
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN LÚN THÂN ĐỐT SỐNG NGỰC, THẮT LƯNG DO LOÃNG XƯƠNG Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân lún thân đốt sống ngực, thắt lưng do loãng xương. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả trên 71 bệnh nhân. Kết quả: 100% bệnh nhân đều có biểu hiện đau lưng tại vùng tổn thương và hạn chế vận động cột sống. Điểm VAS trung bình trước mổ của bệnh nhân là 7,1 ± 1,6 điểm. Bên cạnh đó, tỷ lệ bệnh nhân bị loãng xương và xẹp thân đốt sống vùng bản lề ngực – thắt lưng lần lượt là 56,3% và 59,2%. Tỷ lệ đốt sống có đường nứt gãy trong thân đốt sống là 39,4%. Điểm T-score trung bình của bệnh nhân tham gia nghiên cứu là -3,6 ± 0,8 điểm. Kết luận: Tất cả các bệnh nhân đều có triệu chứng lâm sàng là đau lưng kéo dài ở mức độ đau nhiều trở lên (điểm VAS 5-10), hạn chế vận động ở các mức độ khác nhau và đều phân loại loãng xương nặng. Trên hình ảnh MRI tất cả các bệnh nhân đều có hình ảnh phù tủy xương thân đốt trên phim.
#Lún thân đốt sống #loãng xương #lâm sàng #cận lâm sàng
KHẢO SÁT PHƯƠNG PHÁP Y HỌC CỔ TRUYỀN VÀ Y HỌC HIỆN ĐẠI ĐIỀU TRỊ BỆNH LOÃNG XƯƠNG TẠI KHOA LÃO BỆNH VIỆN Y HỌC CỔ TRUYỀN TRUNG ƯƠNG Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát phương pháp Y học hiện đại và Y học cổ truyền điều trị bệnh Loãng xương tại Khoa Lão Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Thiết kế nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang được thực hiện trên 72 bệnh nhân bằng phương pháp chọn mẫu thuận tiện, thời gian thực hiện từ 6/2019 – 6/2020. Kết quả: 100% bệnh nhân sử dụng phương pháp Y học cổ truyền trong đó 51,4% bệnh nhân được điều trị kết hợp với Y học hiện đại. Điều trị bằng Y học hiện đại: 72,0% bệnh nhân sử dụng nhóm thuốc ức chế hủy xương (Calcitonin 67,6%, Bisphosphonat 5,4%) và 48,6% bệnh nhân sử dụng nhóm thuốc bổ sung khoáng chất và vitamin (kết hợp Calci và vitamin D 27,0%, Calci hoặc vitamin D: 10,8%). Điều trị theo Y học cổ truyền: 93,1% bệnh nhân được điện châm và xoa bóp bấm huyệt; thuốc thang được sử dụng nhiều nhất (100%), dạng cao (79,2%), dạng hoàn (75,0%) và dạng chè được sử dụng ít nhất 33,3%. Các bệnh nhân sau điều trị có mức độ đau theo thang điểm VAS giảm so với thời điểm vào viện (p < 0,05).
#Phương pháp điều trị #Loãng xương
CÁC HỘI CHỨNG LÃO KHOA VÀ BỆNH ĐỒNG MẮC Ở NGƯỜI LOÃNG XƯƠNG CAO TUỔI Mục tiêu: mô tả các hội chứng lão khoa và thực trạng các bệnh đồng mắc ở người bệnh loãng xương cao tuổi. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ 09/2021 – 09/2022 ở bệnh nhân loãng xương tuổi ≥ 60 tuổi, khám và điều trị tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương. chẩn đoán loãng xương theo tiêu chuẩn WHO năm 1994 dựa trên mật độ xương. Kết quả: Trong nhóm nghiên cứu 285 bệnh nhân loãng xương, tuổi trung bình là 72,7 ± 8,7, nữ giới chiếm tỷ lệ cao hơn với tỷ lệ 85,6% (244 người). Bệnh mạn tính kèm theo mà bệnh nhân mắc phải nhiều nhất là tăng huyết áp (37,9%); sau đó là thoái hóa cột sống thắt lưng với 30,2%, thoái hóa khớp gối (27,0%) và rối loạn mỡ máu (19,7%), đái tháo đường (14,0%). Có 5,6% bệnh nhân từng phẫu thuật cơ xương khớp (CXK) và 9,8% bệnh nhân đã từng gãy xương từ tuổi trung niên (40 tuổi). Tỷ lệ loãng xương tại cột sống thắt lưng (CSTL) (66,3%) cao hơn vị trí ở cổ xương đùi (CXD) (11,2%). Tỷ lệ giảm mật độ xương ở CXD là 48,4% cao hơn vị trí CSTL (15,4%). Có 50,9% bệnh nhân khó khăn về hoạt động hàng ngày (ADL) và 42,3% khó khăn hoạt động hàng ngày có sử dụng dụng cụ (IADL). Đánh giá tình trạng dinh dưỡng - thang đo MNA-SF thấy rằng bệnh nhân trong nghiên cứu có nguy cơ suy dinh dưỡng (SDD) chiếm 36,8% và suy dinh dưỡng chiếm 11,6%. Kết luận: Tỷ lệ các hội chứng lão khoa cao ở người loãng xương cao tuổi do đó cần sàng lọc và đánh giá toàn diện ở nhóm đối tượng này để có hướng điều trị phù hợp.
#loãng xương #người cao tuổi #hội chứng lão khoa.
KẾT QUẢ CẢI THIỆN GÓC GÙ CỘT SỐNG VÙNG BẢN LỀ NGỰC THẮT LƯNG BẰNG KĨ THUẬT BƠM XI MĂNG SINH HỌC CÓ BÓNG TRÊN BỆNH NHÂN XẸP ĐỐT SỐNG DO LOÃNG XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC Mục tiêu: Đánh giá sự cải thiện về lâm sàng và các chỉ số góc gù vùng bản lề ngực thắt lưng bằng phương pháp bơm xi măng sinh học có bóng trên những bệnh nhân có xẹp đốt sống do loãng xương. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 60 bệnh nhân được chẩn đoán xẹp đốt sống vùng T12-L1 do loãng xương được điều trị bằng phương pháp tạo hình thân đốt sống bằng bơm xi măng sinh học có bóng tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Mật độ xương của bệnh nhân, thang điểm đau VAS, thang điểm ODI, góc gù thân đốt, tỷ lệ giảm chiều cao tường trước được đánh giá trước và sau phẫu thuật. Các bệnh nhân được khám lại sau 6 tháng. Kết quả: Hiệu quả phục hồi chiều cao thân đốt sống từ 59,3 ± 11,4 (%) lên 73,3 ± 7,9 (%). Các góc gù thân đốt sống, góc Cobb cải thiện sau bơm có ý nghĩa thống kê và được duy trì sau 6 tháng theo dõi. Trung bình điểm VAS trước bơm, sau bơm 24h và 6 tháng lần lượt là 6,5; 2,5; 2,8. ODI trước mổ và sau mổ 6 tháng lần lượt là 54,3% và 27,6%. Kết luận: Tạo hình thân đốt sống bằng phương pháp bơm xi măng sinh học có bóng trên những bệnh nhân xẹp đốt sống T12-L1 do loãng xương có hiệu quả tốt.
#Xẹp đốt sống #bơm xi măng sinh học có bóng #loãng xương #góc gù thân đốt sống
NGÃ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI CÓ LOÃNG XƯƠNG Mục tiêu: xác định tỷ lệ ngã và một số yếu tố liên quan ở người cao tuổi có loãng xương. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 140 người cao tuổi có loãng xương khám và điều trị bệnh viện Lão Khoa Trung Ương. Kết quả: độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 73,2 ± 9,0 tuổi, tỷ lệ ngã trên người cao tuổi có loãng xương là 34,3%, trong đó 68,8% ngã vào buổi sáng, 62,5% ngã do trượt ngã, 16,7% ngã khi đứng dậy. Tỷ lệ gãy xương do ngã là 87,5%. Không có mối liên quan giữa tuổi, giới, hoàn cảnh sống với ngã trên người cao tuổi có loãng xương (p>0,05). Kết luận: Tỷ lệ gãy xương do ngã trên người cao tuổi có loãng xương rất cao. Do vậy dự phòng ngã trên người cao tuổi có loãng xương là rất quan trọng.
#ngã #loãng xương #người cao tuổi #gãy xương
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG BỆNH NHÂN XẸP ĐA TẦNG CỘT SỐNG NGỰC VÀ THẮT LƯNG DO LOÃNG XƯƠNG ĐIỀU TRỊ BẰNG PHƯƠNG PHÁP BƠM CEMENT SINH HỌC Mục đích: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các bệnh nhân xẹp đa tầng cột sống ngực, thắt lưng được điều trị bằng phương pháp bơm cement sinh học. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 28 trường hợp xẹp đa tầng cột sống ngực thắt lưng được điều trị bằng phương pháp bơm cement sinh học đa tầng tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01 năm 2019 đến tháng 6 năm 2021. Kết quả: Tỷ lệ nữ/ nam: 8.35, tuổi trung bình 70.5 tuổi (44-86), 100% bệnh nhân có bệnh nền. Triệu chứng chính: đau đột ngột tại cột sống do chấn thương nhẹ hoặc tự nhiên kèm hạn chế vận động do đau, VAS trung bình 7.04 điểm (6-9), tổng số 103 đốt xẹp mới, vị trí tổn thương nhiều nhất ở T12 (17 đốt xẹp), chủ yếu là xẹp hình chêm (51.5%), 75% bệnh nhân có biến dạng cột sống, T-Score trung bình -3.89. Kết luận: Xẹp đa tầng cột sống ngực thắt lưng do loãng xương chủ yếu ở bệnh nhân cao tuổi, nữ giới, có bệnh lý nền, khởi phát sau một chấn thương nhẹ hoặc tự nhiên, thường đau kéo dài, tỷ lệ biến dạng cột sống cao, mức độ loãng xương nặng.
#xẹp đa tầng cột sống #lâm sàng và cận lâm sàng
9. Mối liên quan giữa một số hội chứng lão khoa và ngã trên bệnh nhân cao tuổi có loãng xương Nghiên cứu thực hiện với mục tiêu tìm hiểu mối liên quan giữa một số hội chứng lão khoa và ngã trên bệnh nhân cao tuổi có loãng xương. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 140 người cao tuổi có loãng xương khám và điều trị bệnh viện Lão khoa Trung ương. Kết quả cho thấy độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 73,2 ± 9,0 tuổi, tỷ lệ ngã trên người cao tuổi có loãng xương là 34,3%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa hội chứng dễ bị tổn thương với ngã (p = 0,038). Không có mối liên quan giữa Sarcopenia, hoạt động chức năng hàng ngày với ngã trên người cao tuổi có loãng xương (p > 0,05). Hội chứng dễ bị tổn thương có mối liên quan với ngã trên bệnh nhân cao tuổi có loãng xương. Do vậy cần sàng lọc hội chứng dễ bị tổn thương trên bệnh nhân loãng xương cao tuổi và có các biện pháp can thiệp nhằm giảm thiểu tỷ lệ ngã.
#ngã #loãng xương #người cao tuổi #hội chứng lão khoa
KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ VITAMIN D Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 CAO TUỔI CÓ LOÃNG XƯƠNG Mục tiêu: Khảo sát nồng độ vitamin D và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 cao tuổi có loãng xương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 70 bệnh nhân đái tháo đường type 2 cao tuổi có loãng xương đến khám và điều trị tại bệnh viện Lão khoa Trung ương từ tháng 10/2020 đến tháng 7/2021. Nồng độ vitamin D được đo bằng máy Cobas 6000 Modul e601 (Roche) tại khoa Xét nghiệm Bệnh viện Lão khoa Trung ương. Kết quả: Nồng độ vitamin D trung bình của bệnh nhân nghiên cứu là 49,0 ± 17,3 nmol/l, tỷ lệ thiếu vitamin D là 84,3%. Nồng độ vitamin D ở nhóm bệnh nhân tập thể dục thường xuyên, kiểm soát huyết áp và HbA1c đạt mục tiêu cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm không tập thể dục, kiểm soát huyết áp và HbA1c không đạt mục tiêu (p< 0,05). Nồng độ vitamin D không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với nhóm tuổi, giới, BMI và kiểm soát lipid máu. Kết luận: Nồng độ vitamin D trung bình của đối tượng nghiên cứu thấp. Cần xét nghiệm tầm soát vitamin D và khuyến cáo tập thể dục, kiểm soát huyết áp và đường máu tốt ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 cao tuổi có loãng xương.
#Vitamin D #đái tháo đường type 2 #loãng xương #người cao tuổi